Tóm tắt
Tổng quan: nhồi máu mạc nối lớn và bờm mỡ đại tràng là những bệnh lý rất hiếm gây đau bụng cấp. Mục đích của nghiên cứu này là để xác định tần suất của hoại tử mỡ trong khoang bụng và bàn luận về các yếu tố lâm sàng và vai trò của nội soi trong điều trị bệnh lý này.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu trên 563 bệnh nhân đau bụng cấp tính được chẩn đoán xác định qua nội soi.
Kết quả: Tần suất mắc phải hoại tử mạc nối lớn trên 563 bệnh nhân đau bụng cấp là 1.1%. 6 bệnh nhân bị nhồi máu mạc nối lớn hoặc bờm mỡ đại tràng. Đau là triệu chứng nổi bật và chẩn đoán trước mổ phụ thuộc vào vị trí của mạc nối hoặc bờm mỡ bị hoại tử. Chẩn đoán và điều trị được thực hiện qua nội soi.
Kết luận: Tần suất mắc phải hoại tử mạc nối lớn cao hơn so với lúc trước khi nội soi ra đời. Hoại tử mạc nối lớn và bờm mỡ đại tràng là chẩn đoán phân biệt cùa viêm ruột thừa, viêm túi mật cấp, và viêm túi thừa đại tràng.
Nhồi máu mạc nối lớn hoặc bờm mỡ đại tràng có thể gây đau bụng cấp. Mặc dù tần suất mắc phải rất hiếm, nhưng biểu hiện lâm sàng của bệnh lý này có thể rất giống các bệnh lý ngoại khoa thường gặp khác. Chúng tôi trình bày 6 trường hợp hoại tử mỡ trong khoang bụng, được chẩn đoán qua nội soi, có biểu hiện lâm sàng nghi ngờ viêm ruột thừa, viêm túi mật cấp, hoặc viêm túi thừa đại tràng. Nội soi cho phép chúng ta chẩn đoán xác định và điều trị những bệnh lý hiếm gặp này.
Kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu
Từ năm 1990 đến 1995, 563 ca nội soi trên bệnh nhân bị đau bụng cấp đã được thực hiện. Nội soi được chỉ định đối với những trường hợp này do nghi ngờ viêm ruột thừa, viêm túi mật cấp và viêm túi thừa mạc nối hoặc trên những bệnh nhân không có triệu chứng rõ ràng nhưng nghi ngờ có bệnh lý ngoại khoa. Trong đó có 6 trường hợp có chẩn đoán cuối cùng là hoại tử mỡ trong khoang bụng (tỉ lệ 1.1%).
Hoại tử một phần mạc nối nguyên phát xảy ra ở 1 bệnh nhân. Hoại tử một phần mạc nối thứ phát do xoắn xảy ra ở 3 bệnh nhân. 2 bệnh nhân được chẩn đoán là hoại tử bờm mỡ đại tràng do xoắn. Cả 6 trường hợp đều không phát hiện thấy có dịch hay máu trong khoang bụng, và không có ca nào có biến chứng xảy ra trong lúc phẫu thuật. Thời gian phẫu thuật trung bình là 62 phút (40-120 phút). Kết quả giải phẫu bệnh xác định có hoại tử đại thể mô mỡ ở tất cả các bệnh nhân. Hậu phẫu hoàn toàn không biến chứng và thời gian nằm viện trung bình là 5.8 ngày (4-7 ngày). Sau đó bệnh nhân được theo dõi trong vòng trung bình 10 tháng (7-15 tháng) và không phát hiện triệu chứng tái phát.
Bàn luận
Trong y văn, những trường hợp hoại tử mỡ trong khoang bụng là rất hiếm. Hoại tử mạc nối nguyên phát ít gặp hơn là hoại tử mạc nối thứ phát thường do xoắn một phần mạc nối dễ di động. Bất cứ độ tuổi nào cũng có thể mắc phải, kể cả trẻ em. Béo phì và bệnh lý tim mạch được cho rằng là những yếu tố nguy cơ. Béo phì xuất hiện ở 50% số bệnh nhân, và 1 bệnh nhân có tiền căn bệnh lý tim mạch. Nhồi máu mạc nối có xu hướng xảy ra ở phần mạc nối bên phải và nguyên nhân thường là do xoắn. Còn hoại tử bờm mỡ đại tràng thì hầu hết là do xoắn.
Xoắn bờm mỡ đại tràng
Tùy theo vị trí của phần mạc nối hay bờm mỡ bị hoại tử mà triệu chứng lâm sàng có thể không điển hình và rất giống với các bệnh lý thường gặp khác gây đau bụng cấp. Buồn nôn, tiêu chảy, và nôn ói cũng đã được mô tả trong y văn nhưng hoàn toàn không có trên những bệnh nhân của chúng tôi. Đau bụng là triệu chứng nổi bật và kéo dài từ 1-5 ngày. Các kết quả xét nghiệm thường không đặc hiệu, đa số là không tăng hoặc chỉ tăng nhẹ số lượng bạch cầu.
Giải phẫu bệnh hoại tử mạc nối lớn
Chẩn đoán trước phẫu thuật thường gặp nhất là viêm ruột thừa (64-74%), kế đến là viêm túi mật cấp (21-26%). Chẩn đoán chính xác trước phẫu thuật hầu như là rất hiếm. Ngay cả CT scan và siêu âm bụng cũng không thể cho phép có chẩn đoán xác định. Trong y văn, các trường hợp hoại tử mạc nối lớn đều được chẩn đoán trong lúc phẫu thuật.
Giá trị của nội soi trong chẩn đoán và điều trị những trường hợp đau bụng cấp không đặc hiệu này là rất cao. Nội soi cho phép phẫu thuật viên thám sát toàn thể ổ bụng, vốn rất hạn chế đối với phẫu thuật hở, ví dụ như đường rạch McBurney trong mổ cắt ruột thừa. Do đó đối với những trường hợp đau bụng cấp, đặc biệt là đối với bệnh lý hiếm gặp thì nội soi chẩn đoán là một phương tiện hữu ích và chúng tôi tin rằng trong tương lai nội soi sẽ giúp chẩn đoán dễ dàng các trường hợp hoại tử mỡ trong khoang bụng.
Phan Huỳnh Tiến Đạt
(Y2009B – Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch)
Tài liệu dịch: “Abdominal fat tissue necrosis as a cause of acute abdominal pain”. D. Aronsky, K. Z’graggen, M. Banz, C. Klaiber. Department of Surgery, Spital Aarberg, CH-3250 Aarberg, Switzerland. (PubMed)